VN88 VN88

Về nhìn lại bức tranh xưa

Nó đi biền biệt. Mãi đến năm 1965, cũng mùa thu nó trở về. Năm ấy máy bay Mỹ đang dồn dập đánh cầu Hàm Rồng. Với tư cách là phóng viên của tờ báo Văn Nghệ, tôi từ một ụ pháo bảo vệ cầu Long Biên trở vào lúc đường phố vừa lên đèn, thấy nó đứng đợi ngoài cửa. Nó ôm tôi, hôn theo kiểu Tây. Người Mười Biện mập mạp hồng hào, trẻ ra nhưng giọng không vui:
– Nếu đêm nay không gặp mày, tao chẳng biết đi đâu. Có vợ chưa?
– Chưa!
– Vậy thì mày đi với tao.
Bằng chiếc xe gắn máy của Liên Xô, chiếc xe màu đỏ, tiếng nổ giòn tan, nó đưa tôi lên Nghi Tàm, vào nhà thằng bạn cùng một lớp nay là kỹ sư chăn nuôi, thằng Bình, thằng có giọng hát hay nhất trường.
Thằng Bình hầm con gà công nghiệp nặng đến bốn ký. Da gà dày như da heo, nhai nghe rào rạo, thật ngon.
Mùa thu bên bờ sông Hồng, lành lạnh mát, ba chúng tôi đốt lửa, đàn hát như hồi còn ở trường.
Ơở Liên Xô, Mười Biện chắc vẫn chơi đàn, tiếng đàn của nó bây giờ cảm hơn, sâu hơn. Thằng Bình có giọng nam cao, Mười Biện giọng nam trung, tôi thì giọng nam trầm. Cả ba đều hát bài hát Tình ca của Hoàng Việt. Trong bài hát, lời nào là “em” thì Mười Biện đổi chỗ lại là “con”. Như câu đầu, cả ba đều hát đúng lời: Khi hát lên tiếng ca gởi về người yêu quê ta. Đến câu thứ ba: Em ơi nghe chăng lời trái tim vọng ra. Mười biện hát: Con ơi nghe chăng lời trái tim vọng ra… Lời cuối cùng: là một bài tình ca của đôi lứa ta… Mười biện hát: Là một bài tình ca của ba chúng ta không thể xóa nhòa. “Ba chúng ta…” của Mười biện không phải là ba chúng tôi mà của nó, vợ nó và con nó.
Đêm thu, ngọn gió sông Hồng đưa chúng tôi trở về với những ngọn gió xôn xao trong rừng tràm, xôn xao trong rặng lá ven sông nước đất U Minh. Chúng tôi ngồi với nhau bên đống lửa, bên đĩa thịt gà, bên ly rượu cùng tiếng đàn hát cho đến sáng.
Trước khi ra về, Mười Biện nói giọng tâm sự:
– Bây giờ đến lúc tao phải tự biện minh.
– Biện minh cái gì ? – Chúng tôi hỏi.
Thức suốt một đêm, râu ria đứa nào cũng dài ra, mắt trũng sâu, như thêm một tuổi. Mười Biện nói:
– Tao học trong thời kỳ Liên Xô đang xét lại. Bây giờ tao muốn biện minh cho cấp trên hiểu rằng “xét lại” không chạm đến cái lông chân của tao. Tao biện minh bằng cách xin về Nam đánh Mỹ. Đêm nay là đêm tao chia tay với tụi mày!
Một chút ngậm ngùi khi nó nổ máy đưa tôi về.

Mười Biện về Nam, tôi cũng về Nam. Tôi về cùng đoàn văn nghệ sĩ, lên đường vào ngày mùng ba Tết năm 1966. Mười Biện đi lúc nào tôi cũng không biết, nhưng cũng xuất phát từ ga Hàng Cỏ và chắc lên tàu vào đêm tối.
Trên đường Trường Sơn, một hôm từ trong bệnh xá ra trạm thì tôi gặp Mười Biện. Nó vẫn khỏe mạnh, còn tôi thì sau những cơn sốt, người xanh xao ốm yếu, chân như hai cọng nhang không đủ sức đỡ lấy thân, cây gậy trong tay mà bước đi cứ run run. Nhận ra tôi từ xa, Mười biện chạy tới vừa ôm tôi vừa đỡ cái ba-lô trên vai tôi:
– Mày sốt ?
– ừ…
– Đoàn mày đâu?
– Tao rớt, đoàn tao đi trước rồi.
– Thôi, nhập vào đoàn của tao.
Trên đường Trường Sơn, có thể nói không đơn vị nào giữ nguyên quân số từ đầu đến cuối. Người nào sốt thì tấp vô trạm, đoàn cứ đi, khỏe rồi thì nhập vào đoàn khác, tiếp tục lên đường. Vậy thì tôi đi với Mười Biện, đỡ quá, mọi thứ trang bị trên người tôi, nào quần, nào áo, nào gạo… Mười Biện chia ra trong đoàn nó mỗi người một ít, tôi chỉ đi mình không với cây gậy. Tôi khỏe dần.
Đi đã gần hai tháng mà con đường mòn Trường Sơn cứ lên lên xuống xuống và dài ra hun hút.
Rồi một buổi chiều đến cái trạm đổ xuống đồng bằng gọi là trạm Vườn Chuối. Trạm này có chỗ mua rượu và thịt nai do giao liên của trại cung cấp. Trước khi lên đường, mỗi người được lãnh mười ngàn đồng tiền của Sài Gòn để phòng thân, về đến nơi mà còn nạp cho cơ quan, cũng là cách chuyển tiền về chiến trường.
Đoàn của Mười Biện mua cả một con nai, mỗi người một “toong” rượu.
Tôi với Mười Biện ngồi trên một phiến đá bằng phẳng như một cái bàn lai rai với thịt có một cậu bé mười lăm, mười sáu tuổi đi qua. Thấy cậu mặc áo bà ba đen, đội mũ tai bèo, quấn khắn rằn, biết cậu là cậu giao liên.

Mười Biện đưa tay ngoắc cậu giao liên:
– Này cháu, cho chú hỏi cái này một chút.
Cậu bé giao liên quay mặt lại, mặt câng câng:
– Xin lỗi, ở đây chỉ có đồng chí chớ không có chú cháu.
Mặt Mười Biện xạm lại.
Cậu giao liên nói vậy rồi bỏ đi, hai đứa uống rượu bớt hào hứng. Vừa lúc đó thì trạm trưởng đi qua, Mười Biện gọi:
– Đồng chí trạm trưởng!
Người trạm trưởng tuổi độ ba mươi, vạm vỡ trong bộ quân phục màu cứt ngựa:
– Có gì không đồng chí?
– Mời đồng chí uống với tôi một hớp.
Trạm trưởng sà xuống, chúng tôi mời rượu bằng cái chén sắt.
Mười Biện hỏi:
– Cái cậu giao liên hồi nãy dân ở đâu, con nhà ai mà căng quá?
– Nó không cho anh gọi bằng cháu chứ gì?
– Đúng!
– Sao?
– Mấy đoàn trước hễ người nào gọi nó bằng cháu là nhờ nó đủ thứ việc, nào cho chú cho bác một bó củi, cho một bình nước sôi pha trà, nó chạy tăm tắp, vất vả quá, nó đành bày ra cái trò ai ai cũng đồng chí.
Suốt hai tháng trên đường Trường Sơn, lần đầu tiên tôi mới nghe giọng nói Nam Bộ, tôi muốn làm quen với cháu.
– Được, để tôi gọi nó.
Anh trạm trưởng uống xong hớp rượu, bước vào con đường mòn.

Cậu giao liên đứng trước mặt chúng tôi, vẫn câng câng. Mười Biện dè dặt, đưa tay lên phiến đá, vẻ ân cần:
– Mời đồng chí ngồi?
Cậu bé không ngồi, cứ tròn mắt quan sát. Mười Biện hỏi tiếp:
– Đồng chí ở tỉnh nào?
Cậu bé giao liên trả lời cộc lốc:
– Bạc Liêu!
– Bạc Liêu mà ở đâu?
– Rạch Rán.
– Má đồng chí tên gì?
– Đồng chí hỏi làm chi?
– Hồi trước tôi có đóng quân ở Rạch Rán, hỏi xem có quen không?
– Má tôi tên Hạnh!
– Còn ba?
– Ba đi tập kết.
– Biết tên ba không?
– Tên ba mà sao không biết!
– Tên gì?
– Mười Biện?
Đang ngồi, Mười Biện bỗng vùng dậy ôm thằng bé, hét lên:
– Đ.m ! Tao là ba của mày! Minh! Ba là Mười Biện đây con!
Tôi thấy hai vai nó run lên, thằng nhỏ đứng như trời trồng, mặt nó sững sờ, còn tôi thì ứa nước mắt.
Sáng hôm sau, đoàn lên đường, Mười Biện xin ở lại với thằng con vài hôm. Trước khi chia tay, Mười Biện cho tôi biết:
Vợ tao bị đày ra Côn Đảo. Thằng nhỏ bị nó truy lùng, nó theo anh em, vượt sông Tiền, sông Hậu, vượt rừng xa đến đây.
Một câu vắn tắt nhưng chứa đựng bao đau khổ gian nan của vợ con nó. Mười hai năm, sau một đêm gặp lại cha, nó như một người khác, trông mặt nó hiền lành, nó đứng khoanh tay cúi chào từng người trong đoàn. Tôi ôm hôn cậu giao liên đồng chí trước khi lên đường.

Suốt chín năm ở R, hai đứa không gặp nhau nhưng biết là hai đứa vẫn sống, mỗi đứa một chiến trường. Tôi về chiến trường Đồng Tháp Mười, Mười Biện thì về chiến trường Củ Chi, lấy đó làm bàn đạp vọt vào nội thành Sài Gòn gây dựng cơ sở. Cái nghĩa nào đó thì tôi nổi lềnh đềnh trên chiếc xuồng ba lá, Mười Biện sống trong lòng Củ Chi thì như chìm sâu trong lòng đất. Sau 30-4-1975, về Sài Gòn, Mười Biện được lên cấp tá, làm trưởng gì đó của Sở Công an.
Gặp nhau, câu đầu tiên tôi hỏi:
– Vợ con mày sao?
– Vợ tao được trao đổi sau Hiệp định Paris. Nhưng trớ trêu, tao về Nam, nó lại trao trả vợ tao ra Sầm Sơn. Tụi nó chơi tao tới cùng. Tao muốn có thêm một đứa con gái nhưng vợ tao bị triệt sản rồi.
– Còn thằng con đồng chí.
– Đang học trường Công an, cha nào con nấy.

Tôi đến thăm nhà cô giáo Hạnh. Ba mươi lăm năm, người đàn bà bị tù đày, với mái tóc hoa râm, thân hình gầy gò, tôi chỉ nhận ra cô giáo Hạnh qua ánh mắt và nụ cười. Cô giáo Hạnh kể lại đoạn đời mình qua giọng nói nhỏ nhẹ, đều đều, bình thản chau mày:
Aảnh xuống tàu tập kết ra Bắc, tôi bồng thằng nhỏ về Sài Gòn, mượn nghề may làm trạm giao liên. Tôi bị bắt vào buổi trưa. Thật may lúc đó thằng Minh đi học chưa về.
Cũng là tù nhưng tôi là người tù đặc biệt, vừa đánh, nó vừa hét: “Vợ thằng công an! Vợ thằng công an! Tao đánh cho thằng chồng công an của mày ở Miền Bắc cũng phải đau!”. Khi gặp lại nhau tôi nói: “Anh làm công an làm chi cho em bị đánh quá trời!” Anh biết ảnh trả lời sao không, ảnh đưa tay vuốt ngực vừa cười, tôi cũng cười. Trong tù, tôi nhớ ảnh mà không lo cho ảnh, còn thằng con vừa nhớ vừa lo, chẳng biết nó ra sao. Sau ngày trao trả, ở Hà Nội, tôi nhận được thư của hai cha con. Tôi được biết, khi tôi bị bắt thì người bạn cùng cơ sở đến tận trường đón con tôi đi thẳng ra bến xe, lên xe đò về Cà Mau, đó là năm 1960, thằng Minh vừa mười tuổi. Đọc thư nó, nghe đứt ruột, nó theo anh em vào rừng. Bốn năm sau, nó lên R xin làm giao liên, rồi gặp ba nó trên đường Trường Sơn. Gian nan nhưng nhiều lúc, ngẫm lại, đời mình vẫn còn may hơn nhiều anh chị em khác. Một lần khác Mười Biện tâm sự:
– Đêm đầu gặp nhau, mày biết vợ tao nói gì không? Ơở trong tù bọn giặc nó đánh em tan nát, bây giờ gặp anh, anh hôn nát cái mặt em! Là nhà văn mày có sáng tạo nổi tình yêu qua ba tiếng “hôn nát mặt” hay không?

Còn nhớ, một chiều cuối năm 1979, Mười Biện tìm tôi:
– Tao muốn nhờ mày một chuyện.
– Tao là thằng viết lách có gì mà mày nhờ, có gì nói đi!
– Mày có chơi với một họa sĩ tên là Đức Quỳnh phải không?
– Có, hay uống bia ở Hội Văn nghệ, nó làm sao?
– Đang ở tù!
Tôi ngạc nhiên:
– Sao vậy.
– Vượt biên bị bắt. Trường hợp này xét ra không có gì nghiêm trọng, tao muốn cho về. Nhưng trước khi cho về, tao muốn mày lấy danh nghĩa là văn nghệ sĩ với nhau mày bảo lãnh để anh ta còn nghĩ đến cái tình người cùng giới. Mày hiểu ý tao.
– Hiểu!
Ba hôm sau hoạ sĩ Đức Quỳnh đến thăm tôi với chai rượu khó kiếm (lúc bấy giờ), chai Hennessy. Người uống chai rượu ơn nghĩa này đúng ra không phải là tôi!

Có việc gì rắc rối tôi thường tìm đến Mười Biện. Anh bạn văn nghệ của tôi có một đứa con vượt biên đang ngồi tù. Hai vợ chồng chạy lo khắp các cửa, bị bọn gian lừa mất mấy cây vàng mà không tiếp cận được người có quyền. Đêm, tôi gọi điện thoại đến Mười Biện kể lại sự tình, giọng Mười Biện từ đầu dây bên kia:
– Chuyện gì cũng phải xét cho kỹ, nhưng mày nhờ thì tao làm. Biết sao không?
– Sao?
– Mày là thằng nhà văn, là thằng có tâm. Tao là thằng có quyền. Cái quyền làm theo cái tâm. Ê! Nhưng mà nói vậy thì đừng có hiểu là anh em tao không có tâm đâu nghe mậy! Này, không phải chuyện gì tao cũng làm được đâu nhá! Người ta tin mày, mày tin tao, tao tin bạn bè tao. Yên tâm!
Chiều hôm sau, chiều hai mươi tám Tết, anh bạn nghệ sĩ mang đến cho tôi hai cây quất chở trên chiếc xe ba gác, mặt mày hớn hở:
– Trưa nay hai vợ chồng đang ngồi ăn cơm, Tết đến nơi mà vắng nó, đang rầu rĩ thì nó ló đầu về. Vợ tôi nhìn sững nó, mày hả con, tưởng như chiêm bao!
Tôi gọi điện thoại lại Mười Biện:
– Sao mà nhanh vậy?
– Trẻ người non dạ ! Như con của mình, cho nó kịp về ăn Tết. Tôi lại được mang ơn, được hai cây quất chơi ngày Tết. Hè năm 1989, trong chuyến sang Mỹ theo lời mời của các nhà văn cựu chiến binh Mỹ, tôi có gặp một người phụ nữ Việt Nam hơn bốn mươi tuổi vượt biên cùng đứa con gái đã gần mười năm, chồng là đại úy của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn còn ở lại Việt nam; người phụ nữ ốm yếu ấy kể với tôi, chị ra đi không vì lý do chính trị, mà vì bế tắc, vì kế sinh nhai, do đó chị không hòa nhập vào nhóm người chống đối cực đoan, chị không tham gia bất cứ cuộc họp hành nào, không theo một đoàn biểu tình nào hô hào chống Cộng, chị bị bọn chúng cô lập, ngày ngày lầm lũi đến nhà trường. Chị là cô giáo dạy Anh văn, chị có một vị trí xã hội nhất định. Không làm gì được chị, chúng đánh vào đứa con gái mười sáu tuổi của chị bằng một đòn ác nghiệt, chúng dụ đứa con gái của chị vào con đường ma túy.
Chồng chị nằm trong diện ODP, chị nhờ mãi mà chưa được sum họp. Chị ăn tiêu tằn tiện, góp nhóp được đồng nào hay đồng ấy gửi về cho chồng để lo chạy vạy cho chuyến đi.
– Nhà tôi là đại úy Bộ Tổng tham mưu nhưng là lính kiểng. Ghé thăm nhà tôi anh sẽ thấy ảnh hiền khô, khờ lắm. Con bé không có tình người cha tôi không biết nó sẽ đi đến đâu…

Tôi nói với Mười Biện:
– Nghe cổ nhờ mình chỉ cho chồng cổ cái đường dây đút lót hối lộ, tao xấu hổ quá, chẳng biết có hay không, tao không dám hứa điều gì, nhưng khi nghe cổ kể, tao nhớ đến mày. Mày làm sao giúp cho họ đoàn tụ đúng chính sách, không tốn một đồng xu, làm một cái lấy uy tín.
Mười Biện đốp lại tôi:
– Không! Không phải là một cái mà hàng trăm hàng chục hàng ngàn tỷ cái.
Đang sôi nổi, Mười Biện bỗng trầm xuống nói giọng tâm sự:
– Trong cuộc đời công an của tao, tao tâm đắc một điều: Bất cứ thời nào, chế độ nào, người dân yêu hay ghét chế độ ấy là qua gương mặt người công an. Người có chức năng về việc này là thằng bạn cùng lứa với tao, cùng học ở Liên Xô, tao tin nó, nó tin tao, việc này mày để tao lo.
Độ tháng sau, tôi nhận được một sấp vải đủ may hai cái quần của người phụ nữ Việt Nam từ Mỹ gửi về, gọi là quà nhớ ơn.
Nhiều lúc nghĩ, cái số của Mười Biện cực khổ vì tôi. Trong bạn bè và cả bà con dòng họ người nào cũng gặp chuyện rắc rối hay oan ức nhờ đến tôi, tôi đều nhớ đến Mười Biện, chưa một lần thất bại. Với tôi, Mười Biện còn là một bạn đọc tri kỷ. Có thể nói Mười Biện đọc không sót một câu nào của tôi kể cả những bào phỏng vấn, bài phát biểu trên báo đến chuyện ngắn hay tiểu thuyết.
Đọc xong bao giờ anh cũng điện cho tôi, vừa cho biết cảm tưởng, vừa nhận xét, có lúc anh hỏi tôi đã đọc của một tác giả nào đó chưa, tôi trả lời chưa thì anh la rầy rất dữ: “Sao không đọc, mày chỉ biết đọc của mày thôi à, đọc ngay rồi cho tao biết ý kiến”.
Có một buổi sáng vừa đến cơ quan, Mười Biện đã điện thoại cho tôi:
– Tao mới đọc cái chuyện về người lính của mày. Thích lắm! Lãnh nhuận bút chưa?
– Trưa nay nhậu chơi!
– Cái thằng! Chơi lâu mà không biết! Tao có nhậu trong giờ làm việc bao giờ đâu mậy! Chiều tao mang theo chai rượu bù tiền nhuận bút cho mày.

Sau buổi chiều mừng cái chuyện ngắn của tôi hôm ấy, bẵng đi rất lâu, hai đứa không gặp nhau.
Một hôm bỗng thấy nhơ nhớ, thuận đường tôi rẽ vào nhà Mười Biện gặp cô giáo Hạnh đang tưới kiểng:
– Aảnh vừa về, suýt chết đó anh!
Mười Biện xuất hiện với gương mặt của người khác, nếu gặp ở ngoài đường, không thể nhận ra, râu tóc bờm xờm che kín cả mặt.
Chuyện lạ, Mười Biện bưng ra một bình rượu cần đặt lên bàn:
– Thứ thiệt! – Mười Biện xoay chiếc cần qua tôi: Nút một hơi đầy.
– Sao?
Nghe mùi rượu nếp than, ngon! Chán đời hay sao mà râu ria dữ vậy.Vô hang hùm bắt cọp – Râu ria để vào sào huyệt của bọn Fulrô. Khi nào mày thấy tao cạo râu ria hớt tóc như cũ coi như tao làm xong nhiệm vụ.
Mười Biện xoay cái cần qua nút một hơi dài, thở khè một tiếng, bắt đầu hào hứng:
– Có một chuyện ly kỳ. Một cán bộ bị Fulrô bắt. Nó đem anh ta ra bắn. Sắp bắn, bọn chúng thấy tiếc cái bộ quần áo của cán bộ. Cởi áo thì phải mở trói. Vừa mở trói xong, thừa cơ, anh cán bộ dùng võ thuật quật một thằng, cướp luôn súng, nổ liền mấy phát rồi lao vào rừng rậm trầm mình dưới con suối. Mày thấy lên phim được không?
– Anh cán bộ tên gì? Mười Biện trả lời tên người cán bộ giọng ấp úng.
Tôi nhìn vào đôi mắt sâu thẳm của Mười Biện. Mười Biện cười, hai hàm răng lóe lên trong ” bụi râu”.

VN88

Viết một bình luận