Tôi biết anh chín muốn nhờ gì rồi, từ ngày “định cư” ở xóm Cầu Ngang này, tôi nghiễm nhiên trở thành “thư ký” của mấy đám quan hôn tang tế trong xóm. Trước tôi do ba Quang, con dì Ba Xệ, học hết tiểu học lo, khi tôi về sống trong xóm, ba Quang giao tôi, nói tôi có chữ nghĩa nhiều hơn. Tôi chịu trách nhiệm về sổ sách chi thu, đám ma ghi rõ ai phúng điếu bao nhiêu, chi tiền chợ cho ai bao nhiêu; đám cưới ai đi mừng bao nhiêu. Phần tiền mặt do một người bà con gia chủ giữ; miễn sao cho tiền trên giấy tờ và thực tế ăn khớp nhau là được. Tôi cũng vui vẻ nhận, mình từ chợ về, không biết gì nhiều về tập tục dân làng, lại không phải là người có sức vóc gì, thì giúp cho họ trong việc ghi chép phân minh việc tiền bạc cũng là việc nên làm, sẵn dịp học cách sống thật của người dân quê mà đám có học ngoài “chợ” chỉ biết rất mù mờ qua sách vở, tiểu thuyết.
Một chiếc rạp được dựng tạm ngoài sân che nắng, gần chục bộ bàn tròn đã bày ra. Đám thanh niên mau tay lẹ chân lo hết mấy việc này, họ bơi xuồng đến mấy nhà kha khá mượn chén dĩa, nồi niêu, bàn ghế. Mượn của ai, nói thư ký ghi giấy, mai mốt gia chủ cứ theo đó mà trả. Sinh hoạt này, ngày trước sống nơi thị tứ không thấy. Ở đây, một nhà hữu sự, mọi người cùng góp công, góp sức, nhất là những lúc bất ngờ như vầy, không thấy ai kêu ca hay từ chối, bất kể có mất mát hay hư hao chút đỉnh. Mà cũng ngộ, nhà nào cho mượn cũng có dấu riêng, như hai bộ bàn ghế cùa Bảy Dẹt có ghi 7d ở mặt dưới; còn chén dĩa thì họ chấm sơn màu ở khu. Thường tôi phải ghi rõ: Hai Tú 10 tô, 30 chén, chấm vàng; Tám Ú 5 tô nhỏ, 6 dĩa, 15 chén, 2 chấm xanh… còn đũa chỉ ghi bao nhiêu đôi, lúc trả gia chủ chỉ cần đếm cho đủ mà trả, thiếu chút đỉnh không sao; đủa tre mà, một lóng tre già chẻ được hơn chục đôi, của có sẵn, ngồi chuồt chừng tiếng đồng hồ, được cả rỗ
Dân trong xóm đã tụ lại khá đông, họ ngồi uống trà bên ngoài. Bên trong, thầy tụng đang làm lễ nhập quan và phát tang cho con cháu ông Tư. Tiếng thầy í a lên xuống đều đặn theo tiếng chuông mõ, tiếng khóc khi lớn khi nhỏ lao xao với tiếng người nói chuyện rì rầm… Người ta khen ông Tư được phước, chết ở tuổi tám mươi ba là thọ quá rồi, con cháu đầy đủ, ấm cúng.
Hồi còn sống, mỗi khi qua chín Đẹt chơi ông vẫn thường chỉ cho tôi coi cỗ quan tài bằng lõi gỗ còng nâu bóng và nặng trịch kê trong góc chái mà nói:
– Năm coi, như vầy là qua yên tâm rồi, chỉ còn chờ ngày theo bả thôi.
Chín Đẹt chen vào;
– Tía tui khoái nó lắm, hồi nẳm, tui cho hạ cây còng lão, lõi ra gần tới da, đem ngâm dưới mương cả hai ba năm rồi nhờ ông Năm Thợ Mộc đóng cho tía má tui hai quan tài, bả nhường cho ổng phần gốc. Bả nói, để ổng chết, ổng nằm trong đó cho lâu, khỏi sợ con gì đụng tới…
Người ta bắt đầu phúng điếu, họ nhường cho thông gia đi trước. Tiếng trống tung tung chát tung tung cùng với tiếng chập chõa xập xòa giữ nhịp cho việc lên gối xuống gối quì lạy giã từ người chết Thông gia đông quá, chín Đẹt là con út mà đã có tới hai sui rồi, kể hết sui gia với mấy anh chị, tính ra gần hai chục. Họ phải đến chào ông Tư lần chót, đạo nghĩa phải như vậy, ổng là bực trưởng thượng, với lại anh em ngày một xa, sui gia ngày một gần mà!
Thằng hai con chín Đẹt mang tiền trên bàn thờ xuống:
– Thầy Năm ghi giùm: sui cô Bảy hai trăm, sui bác Ba hai trăm, ba chồng con tư ba trăm… cứ ghi như vậy tía tui biết hà.
Bên ngoài bắt đầu lao xao mời chào, tiếng hai Phang:
– Dạ, mời chú tư ngồi vô bàn này cho đủ người! Dạ, chú về sao được, tới cúng ông Tư rồi, cũng phải uống ly rượu lạt vói gia đình cho phải phép…
… Cứ như vậy, người nào tới lúc trời kêu cứ đi, kẻ còn lại vẫn cứ nếp cũ mà sống. Có người uống vài hớp rượu gắp vài món ăn cho phải lễ rồi xin kiếu, cũng có người mượn rượu gia chủ để miệt mài thỏa mãn. Có lần hai Phang buông thỏng “… hèn chi có người gọi đi phúng điếu đám ma là đi chia thịt!”…
Xong đám, hôm cúng thất cho ông Tư, nghe bà con nói, ông Tư chết như vậy là ấm cúng, trong xóm ai cũng tới cúng, mấy người quen biết ở xóm Đình, Ngọn Miễu cũng đến. Tiền phúng điếu, sau khi trừ hết mọi chi phí, chín Đẹt còn “lời” hơn năm ngàn. Tư Em nói với tôi qua hơi rượu:
– Thầy Năm biết hông? không phải ai cũng được vậy đâu, hồi nẳm thầy chưa về; trong xóm, có ông hai Tổng chết. Nhà giàu quá, thằng con làm phách nói: “Lo gì! mỡ trôi tới đâu, lòng tong theo tới đó” dân trong xóm nghe được, không thèm tới! Chỉ có đám tá điền sợ mất ruộng, đến cúng cho có mặt, báo hại con bò, con heo gần một tạ với hơn chục gà vịt chết theo ổng lảng nhách. Sau mấy ngày, thằng con phải năn nỉ ông Năm thợ mộc hồi đó làm trùm trong xóm, đem khay trầu rượu xuống Xóm Đình năn nỉ đám “dưng quan” xuống khiêng quan tài, mà ở bển nghe bên này không làm cũng phải cử người vô xin phép trước. Sau đó đám con cháu hai Tổng hết dám làm phách với dân trong xóm, nhưng câu nói “mỡ trôi tới đâu, lòng tong theo tới đó” còn hoài.
3
Đám cúng thất cho ông Tư xong hôm trước, hôm sau cậu năm Côi dựng nhà. Cả đời gom góp, gần sáu mươi, cậu mới dựng được căn nhà có phần bề thế đó. Cậu năm về cặm dùi ở đây từ hơn ba mươi năm nay. Hồi đó chỉ có vài nóc gia, ruộng thì minh mông mà ở đâu cũng có chủ, phải mướn lại qua trung gian của tằng khạo. Ăn ít làm nhiều, ky cóp mua lại được mấy công đất cạnh bờ kinh, móc mương lên liếp lập vườn… Tính ra hơn hai mươi năm cậu mới đủ tiền đổ móng cuốn nền, lót gạch bông, tới đó hết vốn đành cất tạm căn nhà lá trên nền gạch bông, tuy coi khá hơn mấy nhà chung quanh nhưng ngó kỳ cục giống như mấy bát nhang chưn đèn bằng sành, bằng gỗ thô, ngự trên tủ thờ danh mộc có cẩn hoa văn xà cừ óng ánh.
Hai người con trai lớn của cậu Năm chuyên đổi ve chai lông vịt ở xa, mỗi chuyến ghe mất ba bốn tuần, cũng cần cù chắt mót như cha, góp tiền mua được bộ cột kèo bằng cây rừng từ xưởng cưa máy ngoài tỉnh. Ba cha con ky cóp gần cả chục năm nay, bây giờ mới dựng căn nhà tương đối kiên cố khang trang.