VN88 VN88

Người xóm đạo

Truyện ngắn người xóm đạo do Truyendammy.vip sưu tầm đọc truyện ngắn người xóm đạo.

Nguoi xom dao

Xem truyện ngắn: Người xóm đạo

Tác giả: Nguyễn Cường Andy

Thằng Sơn khệ nệ bưng thùng ngòi pháo dài thậm thượt vào sân trong. Nó cẩn thận đặt chiếc thùng gỗ xuống nền xi măng, xếp lại mấy bó ngòi cho thẳng tắp để chốc nữa, bốn tay thợ nhà nghề bên xứ Trung-Bắc sẽ sang cắt những cuộn ngòi thành những sợi ngắn bằng que tăm cho bọn thợ đàn bà kết thành bánh pháo. Nó gọi to để ông Quý bố nó trong nhà nghe thấy :
– Ðám ngòi hãy còn ẩm mà giời sắp mưa rồi bố ơi !
Bố nó, một người đàn ông mình trần, hai bàn tay đỏ phẩm, tóc dính nhũ bạc phếch, miệng ăn trầu bỏm bẻm từ trong nhà bước ra, rút chiếc quạt nan dắt đầu hồi, đến ngồi xuống chiếc ghế đẩu để dưới gốc cây tu-ma quạt phành phạch, nhả bã trầu cầm tay rồi trả lời :
– Hơi ẩm thế là được. Khô quá đem cắt chỉ tổ dễ xì.
Rồi quay vào trong nhà, ông cao giọng sai vợ :
– Bu nó ơi ! Ra ngoài ngã tư chợ ghé vào hàng ông Tiến-Thịnh mua cho tao cái đùi thịt chó luộc, một nồi dựa mận với lại ít bánh đa nướng. Bảo nó cho đẫy lá mơ với rau răm vào. Ðám thằng Lăng xứ Trung-Bắc chiều nay sang hộ mình cắt ngòi đấy !
Có tiếng mẹ thằng Sơn “vâng ạ” vang lên một cách mau mắn và ngoan ngoãn, rồi có dáng một người đàn bà cắp rổ đội nón thăn thoắt đi ra đầu ngõ.

Khu Hà Châu nổi tiếng khắp vùng Sài-Gòn Gia-Ðịnh trong nghề làm pháo. Làng Hà Châu ngoài Bắc di cư cả vào trong này, lập lại nghiệp cũ trong khu xóm vùng ngoại ô thành phố miền Nam cùng với hơn chục ngàn dân định cư trên vùng đất mới. Nghề làm pháo đòi hỏi nhiều kinh nghiệm gia truyền và sự khéo léo trong việc pha chế, pháo mới nổ dòn, nổ tan xác. Ðó là chưa kể những nguy hiểm rủi ro như xì cháy ngòi, nổ khuôn. Thuốc pháo dễ phát cháy gấp nhiều lần thuốc súng. Chỉ cần một đụng chạm nhẹ là có thể “bắt” ngaỵ Do đó, vào khuôn là một thao tác quan trọng nhất. Trong khu Hà Châu, công việc này chỉ được giao cho ông Quý bố thằng Sơn. Ông là người từ tốn, khéo tay, đã làm công việc hiểm nghèo này từ mười mấy năm nay không việc gì sất. Nhưng mỗi lần vào khuôn, ông Quý vẫn cẩn thận ra ngoài đền thánh lần ba chuỗi tràng hạt, sấp mình ăn năn tội và bỏ tiền gấp đôi hơn thường lệ vào thùng quyên góp ở đầu nhà thờ. Ông thường bảo :
– Mình đã mang phải cái nghiệp dĩ sinh nghề, dâng thêm dăm chục tiền nến hoa cho chắc bụng !
Và ông cảm thấy vững tâm hơn. Cả vùng này, không phải chỉ mình ông biết vào khuôn. Những xứ đạo khác như Tử Ðình, Thái Bình hay Lạng Sơn cũng có nhiều người cả gan dám đảm nhận cái công đoạn thập tử nhất sinh này, và cũng đã vài người tử nghiệp. Biết trước thế nào được, Chúa gọi ai người ấy dạ, ông hay bảo thế. Nhưng ông chỉ biết mỗi nghề làm pháo. Bỏ nghề này ra, hai vợ chồng ông chỉ còn có nước trở lại nghề làm rượu lậu. Rượu đã bị cấm sản xuất từ thời ông Diệm mới lên cầm quyền được ít năm, nhưng vài nơi ở Xóm-Mới vẫn còn lén lút nấu trộm. Ông Quý không thích nấu rượu. Rượu chè là thứ làm hư đốn con người đi, ông nghĩ thế. Cực kỳ ngoan đạo, làm ông trùm của xứ Hoàng-Mai, ông không thể chỉ vì sinh kế hay muốn làm giầu mà lại góp phần vào việc làm hư con người ta được. Vì ngoài vấn đề nan giải là mai sau lên thiên đàng “liệu giả nhời với các thánh ra làm sao”, ông còn muốn để phúc đức cho con cái, nhất là cho đứa con gái đầu lòng, để nó mai sau còn kiếm được người chồng tử tế. Ở khu này, chẳng hiểu đất đai có dớp quỉ quái gì, mà từ ngày vào Nam lũ con gái ở đây dù đẹp đẽ ngoan ngoãn nết na thế nào, hễ đến tuổi lấy chồng là không chóng thì muộn, cũng sinh ra muôn vàn giống tội. Những tai bay vạ gió ở đâu không biết, cứ tấp nập kéo đến cho con gái khu Hà Châu một cách phũ phàng. Nhẹ lắm thì cũng là ế chồng vĩnh viễn như ba chị em cô Lê, cô Lý, cô Lài.

Vừa vừa thì cũng là vớ phải thằng chồng vũ phu say rượu trốn quân dịch, suốt ngày bị đòn huỳnh huỵch như chị Thắm ăn đòn anh chồng tên Thiết một cách vô cùng thắm thiết. Còn nặng ra, thì lỡ dại hư hỏng một đời, tỉ như cô Kiều con bà Lý Ðính bán mắm tép ngoài chợ, đang yên đang lành chẳng biết ăn phải thứ gì đột nhiên cái bụng phình tướng lên như cái trống treo, làm bà Lý Ðính sau đó phải từ con và mang đứa cháu không cha dọn về Cái-Sắn, còn cô Kiều bơ vơ không nơi nương tựa đành lên ngã ba An-Nhơn kiếm cơm độ nhật. Ôi ! Kể sao cho hết những trường hợp đau thương của tuyệt đại đa số chị em ta trong cái khu xóm gồm khoảng trăm nóc gia chỉ sống đời hiền hòa đạo nghĩa. Nói tóm lại, đường chồng con của phụ nữ khu Hà Châu sau di cư không mấy chi sáng sủa. Có cô đổ lỗi cho số hồng nhan bạc phước, còn các chị thuộc những gia đình sản xuất pháo thì cho đó là tai nạn nghề nghiệp :
– Làm cái nghề này, tay với chân lúc nào cũng không đen nhẻm thuốc ngòi thì cũng đỏ quạch vì thuốc vỏ, còn đẹp đẽ vào đâu nữa mà hòng có người để mắt đến…
Ông Quý đã nghe nhiều tiếng xầm xì ở các xứ khác nói về xóm đạo của ông. Tiếng lành đồn xa, tiếng rữ đồn ba ngày đường. Ai cũng bảo khu ông ở không có “đất”. Mỗi khi nghe các xứ khác bàn đến chuyện này, ông thường nổi cáu :
– Ðất với đai cái gì ! Chúng tôi cũng sớm tối cầu nguyện như các ông. Dễ thường xứ các ông toàn con cái nước thiên đàng còn chúng tôi rặt giống Giu-Rêu chắc ?
Ông cương quyết không để con ông rơi vào số phận hẩm hiu của nhiều phụ nữ ở đâỵ Vĩnh, con gái lớn ông Quý vẻ người xinh, với đôi mắt tròn đen lay láy, cái miệng hay cười chúm chím. Nàng biết mình dễ nhìn, vì bọn thanh niên đến đây làm công cho xưởng pháo thường lân la chuyện trò chọc ghẹo. Nhưng Vĩnh chẳng để ý ai. Tuy chỉ học hết lớp nhất trường công, nàng đã đọc gần hết số tiểu thuyết cho thuê ở tiệm sách Ðức-Tín. Các mối tình thơ mộng trong những truyện của bà Tùng-Long hoặc ông Xuân-Hiệp đều được Vĩnh nghiền ngẫm và mơ mộng.

Những nhân vật khuê các trong truyện, những chàng trai công tử hào hoa đất Sài-Gòn, con nhà giàu, có trình độ của tiểu thuyết phòng the hồi đó đã ăn sâu vào trái tim non của người thiếu nữ có tiếng mặn mòi duyên dáng. Vĩnh tuy hay cười để đáp trả lại mỗi khi nghe lời tán tỉnh gần xa của đám con trai Xóm-Mới, nhưng trong thâm tâm, nàng chỉ xem họ như những người bạn cùng lớn lên từ thuở ấu thơ, cùng vui đùa nghịch ngợm dưới những tàn cây tu-ma xum xuê đầy bóng mát. Như anh chàng Lăng ở xứ Trung-Bắc, chốc nữa sẽ sang đây để cắt ngòi thuê, đã đeo đuổi Vĩnh cả năm nay tuy siêng năng rất được lòng ông Quý – và cả cánh họ hàng nhà nàng trong vùng Xóm-Mới – nhưng Vĩnh không mảy may rung động trước cặp mắt thiết tha, dáng dấp ngượng nghịu, hai má nóng bừng của Lăng mỗi khi chạm mặt nàng. Lăng cắt ngòi khéo nhất vùng. Mũi dao của chàng thoăn thoắt lướt trên từng bó ngòi ngọt sớt, làm rơi xuống từng đoạn ngòi pháo đều tăm tắp như sung rụng. Chàng còn là tay thợ kéo quả thành thạo khỏi chệ Bàn kéo quả làm bằng gỗ bằng lăng nặng chĩu đè lên quả pháo bằng giấy bồi vê chặt, được người thợ kéo dùng sức của đôi cánh tay gân guốc miết xuống để làm cho nó dồn càng thật cứng hơn nữa. Vì nếu không chặt, pháo sẽ nổ không đanh. Khi Lăng kéo quả, người ta thường trầm trồ ngắm Lăng, khen ngợi sức khỏe của chàng biểu lộ qua những thớ gân, những bắp thịt chắc nịch nổi lên từ hai cánh tay trần lấm tấm mồ hôi và bộ ngực nổi vồng theo từng nhịp kéọ Ai nhìn cũng tấm tắc khen :
– Pháo Xóm-Mới, quả nào của thằng Lăng kéo, sờ vào là biết ngay.
Có người lại bảo :
– Ðã thạo nghề lại hiền lành tốt nết, đứa nào vớ được nó đứa ấy phúc tổ bẩy mươi đời…

VN88

Viết một bình luận