Sau khi khỏi bệnh, Đức Ngài như con cá kình từ trong ao tù vọt ra giữa biển cả mà thỏa sức vùng vẫy. Bài thuốc thật là kì diệu. Cái “của quý” trước kia vốn mềm nhũn như con đỉa của Ngài, thì nay lại có khả năng giương lên hết cỡ, vĩ đại như cái cột cờ. Đức Ngài tha hồ dùng nó để “chiến đấu” với các giai nhân. Chỉ phải cái tội không thể có con. Vua mà không có con để truyền giữ ngôi báu thì thật không có nỗi đau nào lớn hơn. Có lẽ đó là nguyên nhân làm cho Đức Ngài từ đó suốt ngày đêm vùi mình vào những cuộc truy hoan tửu sắc, như để bù lại quãng đời thiệt thòi trước kia, như để trả thù cho cái sự tuyệt giống sau này… Việc nước đổ nát đã đành mà Đức Ngài cũng nhanh chóng tiến tới thân tàn ma dại. Trước lúc phải từ biệt cõi dương, chẳng hiểu do sự xắp xếp của mệnh Trời hay do Đức Ngài nửa khùng nửa điên, mà trong số anh em hoàng tử khối bậc anh tài, Đức Ngài không chọn ai. Người mà Đức Ngài chọn lên kế vị lại là gã con hờ của người anh cả, tức thị Hoàng tôn Dương.
Đến đây thì sứ mệnh của cô Thắm đã hoàn thành. Làng Kênh đã trở thành quê ngoại của đương kim hoàng thượng. Lịch sử thật là trớ trêu khi những gã con hoang nhiều khi lại rất có duyên với ngôi… hoàng đế. Vua và Thái hậu (cô Thắm bây giờ phải gọi là Thái hậu) xa giá về thăm làng Kênh. Khỏi phải nói sự tiền hô hậu ủng, xe ngựa rình rang. Dân chúng suốt dọc đường và dân làng Kênh được một phen choáng ngợp. Chỉ lạ cho các thi sĩ làng Kênh, giờ đã trở thành những ông lão, những cây đa, cây đề của nền thơ tình trứ danh ấy, lại chẳng hề tỏ ra vui mừng chút nào trước sự kiện giai nhân thuở trước trở về. Thì ra đối với họ, cô Thắm ngày xưa và Thái hậu bây giờ là hai con người hoàn toàn khác nhau…
Hoàng tôn Dương tuy làm vua nhưng cái chất nghệ sỹ say mê xướng ca không vì thế mà thuyên giảm. Bây giờ thì không ai có thể cản trở Hoàng thựợng thực hiện những ý thích của mình. Thế là đêm đêm, vị hoàng thượng ấy bí mật tới nhà hát của Thái hậu, cải trang đóng vai hoàng đế trong những tích tuồng, chèo cổ. Thiên hạ không biết, triều đình không hay. Chỉ biết rằng từ đó, nhà hát lộng lẫy của Thái hậu xuất hiện một kịch sỹ đại tài, chuyên đóng vai hoàng đế. Ban ngày Ngài làm vua ngoài đời, ban đêm làm vua trên sân khấu. Cái sự hi hữu vừa buồn cười, vừa thú vị ấy xem ra cũng chẳng sao nếu như không xảy ra sự cố gì đặc biệt. Nhưng có chuyện xảy ra. Tất cả do sự lẫn lộn của vị hoàng thượng – kịch sỹ trứ danh này. Lúc trên sân khấu, hoàng thượng tưởng mình đang ở giữa triều đình, lúc ở giữa triều đình lại cứ tưởng đang trên sàn diễn. Thế là lệnh chém đầu ban ra trên sân khấu, nhưng máu chảy, đầu rơi lại ở giữa cuộc đời. Chiếu chỉ, luật pháp… ban ra giữa triều đình, thì lại tưởng là đang… diễn kịch. Ban đầu trăm quan ngơ ngác, thần dân hoang mang. Không biết lúc nào hoàng thượng làm vua thật, lúc nào hoàng thượng diễn kịch đây… Có một vị vua như thế, dần dần ranh giới giữa cuộc đời và sân khấu trở nên lẫn lộn lung tung cả. Triều đình đang là đời thực, thoắt cái biến thành sân khấu. Sân khấu thoắt cái biến thành cuộc đời… Thiên hạ tít mù, vua diễn kịch, trăm quan học theo cũng a dua diễn kịch, đến lượt thần dân cũng thi nhau diễn nốt. Sân khấu tràn ra cuộc đời, cuộc đời là một đại sâu khấu. Những quan gian được dịp tung hoành, mặc sức “diễn” vai quan tuỳ theo cảm hứng. Trong triều đình, kẻ bất lương diễn kịch, ngoài đồng nội, dân chúng lầm than. Cái gọi là “công đường” tôn nghiêm cũng thực ra đã biến thành những sân khấu. Quan lớn xử quan bé, quan nọ xử quan kia… Chẳng có gì khó khăn mà không nhận ra rằng, lưu manh đã nhanh chóng trở thành một đặc quyền của đám quan lại (đến nỗi về sau, có nhà viết sử còn đặt hẳn một cái tên riêng cho thời đại này, gọi là thời đại “độc quyền lưu manh”). Thế là bầy ăn cướp xử bầy ăn cắp, kẻ lưu manh giành giật với lưu manh… Quan án, tội nhân, cả thày cãi cứ thi nhau diễn kịch. Có “vở” đạt đến trình độ cao của nghệ thuật bi, hài. Kẻ cướp được xử thành lương thiện, người vô tội bị tống vào tù…
Không lâu sau, cái hội chứng diễn kịch ngút trời ấy còn lan đến tận khoa cử. Muốn thành ông nghè, ông cử ư? Hãy diễn cho tốt vào. Người có chữ đôi khi phải diễn vai không có chữ, kẻ không có chữ lại diễn vai chữ nghĩa đầy mình. Thế là con cháu không thèm đi học nữa, cứ chờ đấy, lớn lên đóng vai gì tuỳ theo thời thế. Danh ông nghè, ông cử có thể mua bán giữa chợ đời. Các bậc túc nho hoảng hốt. Thế này thì nguy đến muôn đời chứ chẳng phải chuyện chơi. Răn bảo không ăn thua, la mắng, gào thét cũng chẳng kết quả gì. Đám hậu sinh cứ quay cuồng trong những vai diễn. Có vị uất quá lăn đùng ra, sùi bọt mép, chân tay bắt chuồn chuồn lên cơn hấp hối. Vậy mà con cháu cứ tưởng đang đóng kịch, không những đứng nhìn, lại còn chỉ trỏ cười nói tán thưởng: “ông cụ nhà ta đóng vai đột tử sao mà sinh động thế…”
Đến mức ấy thì Hoàng tôn Dương cũng chẳng cần phải bí mật tới sân khấu làm gì nữa. Vai đời và vai kịch đã đồng nhất làm một rồi, thì hoàng thượng không ngần ngại gì mà không lấy tên trên sân khấu để đổi lại tên cho mình. Hoàng thượng trở thành đích danh Dương tôn Hoàng. Bấy giờ các bậc tôn thất mới giật mình. Thế này thì nước trở thành của họ khác mất rồi. Phải làm sao cho hoàng thượng diễn vai cuối cùng thôi.
Cái vai cuối cùng do các bậc tôn thất dàn dựng ấy, sau này các nhà nghiên cứu gọi là: “tương kế tựu kế”. Đó là vai: nhường ngôi. Hoàng thượng nếm đủ các kiểu làm vua rồi, nhưng riêng cái màn nhường ngôi thì chưa bao giờ diễn cả. Thế là chẳng cần biết trong kịch bản có tiết mục này hay không, vị hoàng thượng – kịch sỹ ấy vui vẻ thực hiện. Cởi hoàng bào ra khoác lên vai kẻ khác, mặc quần áo thường dập đầu xưng là thảo dân họ Dương.
Chà! Cái vai này mới quá. Ngay lập tức, kẻ vừa được khoác hoàng bào kia ra lệnh nhốt tên thảo dân mới này vào cũi. Hình như đoạn này không có trong kịch bản, họ Dương giật bắn mình, lờ mờ tỉnh ra. Song hình như đã muộn. Kẻ vừa khoác hoàng bào kia có vẻ không muốn diễn kịch tí nào. “Khoan, ta còn vàng cất giữ trong cung.” – Dương vẫy một viên cận thần. Nghe nói đến vàng, viên cận thần quỳ xuống, thò đầu vào cũi. Chỉ chờ có thế, Dương túm ngay cổ lão, xiết chặt. – “Vở kịch không có đoạn này” – viên cận thần hoảng hốt gào lên, giọng khản đặc – “Thì chính ta đang diễn nó đây” – Dương cũng gào lên đáp lại rồi nắm đầu lão, xoay mạnh một cái. Khục – khớp xương cổ lão quay đúng một nửa vòng, mặt lão quặt ra sau lưng, mắt trợn ngược, lưỡi thè ra, lão chết mà vẫn không hiểu Dương vừa diễn cái màn gì lạ vậy. – “Lôi nó ra ngoài, đập chết cho ta” – vị vua mới ra lệnh. Quân lính kéo Dương ra khỏi cũi. Một nhát, hai nhát… Dương đau quá gào lên – “Hạ màn đi thôi. Ta không muốn diễn nữa. Trả hoàng bào lại cho ta…” – Tiếng “ta” chưa kịp dứt thì Bốp! Một chuỳ giáng trúng sọ. Dương giật cong người, bật ngửa ra, mồm há hốc, hồn lập tức về nơi chín suối mà chưa kịp chứng kiến vai diễn cuối cùng của mình đạt đến mức độ nào.
Thế là xong một kiếp hoàng thượng – kịch sỹ trứ danh. Cô Thắm – bây giờ lại trở thành bà Thắm – đau buồn bỏ xứ tha phương. Các thi sỹ làng Kênh vẫn tiếp tục những dòng thơ tình bất tuyệt, vẫn ngợi ca hình bóng giai nhân và ngày càng tìm ra những âm hưởng mới của triết lý… thất tình. Dân làng Kênh không dám ghi thành văn tự, nhưng đời này sang đời khác vẫn truyền miệng kể cho nhau nghe câu chuyện hi hữu đó, xem như một chút kiêu hãnh ngầm là nơi từng dính dáng đến cái sự đẻ ra hoàng đế một thời. Rốt cuộc sân khấu lại trở về vị trí vốn có của nó.
Hỡi các vị túc nho thuở trước, các vị hãy yên tâm mà an nghỉ nơi chín suối. Cuộc đời không phải là sân khấu nữa rồi. Tuy rằng hậu quả của cái thời đại tai hại ấy đôi khi vẫn còn rơi rớt, thậm chí có lúc còn lặp lại ở đâu đây…
(Truyện ngắn cực hay tại Truyendammy.vip)