VN88 VN88

Chuyện vàng

Người ta có thể bảo đó là thần giữ cửa, thần vàng đuổi theo để báo thù những người trần đã cả gan xông pha vào đất cấm, đất thiêng. Mưa thành suối, thành ngòi trong núi, mưa thành vũng, thành ao trong rừng. Không một giống vật gì có thể ở yên trong hốc đá, trong cây lá. Tất cả đều gầm thét như nguyền rủa, và chạy trốn. Thế rồi, đến khi mưa tạnh thì hơi đất bốc lên làm mục nát thêm mấy tầng lá úa của núi rừng chất đống tự lâu năm. Nắng soi rọi vào khắp nơi để làm chín nẫu những xác sinh vật trong rừng, và muỗi sinh sôi, làm ra sốt rét. Muỗi, muỗi sinh nở mau chóng như bệnh dịch hạch lan ra tứ phía, kêu như ong vỡ tổ, đốt sưng da thịt. Vắt, đỉa chui rúc qua cả áo quần để hút máu. Thế nhưng, những thứ đó còn chịu được, khi người ta mang một đẫy vàng trên lưng, người ta vẫn còn hy vọng, vẫn còn sức mạnh tinh thần. Cứ cố đi, cứ cố đi! Ra khỏi chốn này đến chốn thênh thang, tha hồ sung sướng: nhà cửa, lâu đài, những thức ăn ngon, những áo quần hiếm có, những đồ dùng, tiện nghi đầy đủ… Người ta vừa đi vừa nghĩ đến những cảnh huy hoàng đang chờ đợi mình ở quê nhà, và người ta cố lê, cố bước.
Nhưng giữa lúc này, bần tăng và người bạn bỗng sực nhớ ra rằng lương thực đã cạn dần. Một nỗi lo ngại xâm chiếm đầu óc hai kẻ đã trả nhiều đau đớn.
Buổi sáng kia, khi bần tăng ngủ trên một cành cây cao thức dậy đã thấy một cảnh tượng rất buồn diễn ra trước mặt. Người bạn sinh tử của bần tăng vì sợ bần tăng giữ lấy cho mình tất cả chỗ lương khô còn lại, nên sinh dạ phòng ngừa. Người bạn đã sẽ bớt chỗ lương dùng ăn chung, để giấu vào túi của mình. Bần tăng liền hiểu người bạn đã tính lúc không còn gì ăn nữa thì vẫn có thể sống hơn bần tăng một hai ngày để về cho được tới nhà, khỏi lo chết ở dọc đường bỏ của lại cho rừng thẳm. Một nỗi buồn thoáng qua trong dạ bần tăng. Nhưng nghĩ lại việc đó còn có thể tha thứ được, người bạn của bần tăng vốn sức lực không được khỏe dai như bần tăng, và lâu ngày kham khổ ăn uống thất thường, nên đâm nghĩ quẩn. Bần tăng chỉ vừa buồn vừa thương hại bạn. Thế rồi, lương thực hết! Dẫu có ăn dè xẻn đến thế nào rồi cũng hết. Làm như không biết việc gì vừa xảy ra, bần tăng tìm cách bắn chim, bắt đủ các giống vật dễ bắt, dễ tìm, để ăn xem vào cùng hoa quả rất hiếm ở dọc đường. Những quả xanh nuốt không trôi, những thức ăn không kịp nướng chín đọng lại ở dạ dày vì không dễ tiêu như cơm gạo. Nhiều khi trời tối gặp quãng rừng mưa ướt không đánh đá cho ra lửa được. Thành thử giống người lâm vào cảnh đói lại đâm ra man rợ, dữ tợn gấp mấy giống vật trong rừng. Hai người cứ rình mò từ sáng đến chiều, vừa đi vừa nghỉ, vừa đi vừa săn đón các sinh vật có thể dùng làm thức ăn cho qua cơn đói. Trông bộ dạng hai người lúc đó còn ai dám bảo là giống người? Thật là một cảnh mỉa mai thấm thía: hai người ôm hai bọc vàng to tướng trên mình mà chịu đói chịu khát hơn kẻ hành khất nghèo khổ nhất trong nhân loại. Chao ôi, vàng! Vàng ở đâu là gieo sự sầu não, sự khốn nạn cho người, vậy mà người ta vẫn ham tìm dẫu phải thiệt cả một đời sống vô cùng quý giá.

Trong cơn đói khác lầm than dường ấy, bần tăng lại còn cay đắng thêm vì người bạn thiết của mình đã thay lòng. Vì càng đi gần về xứ sở bao nhiêu bần tăn càng nhận rõ rằng: người bạn của bần tăng đã có lòng nghi kỵ bần tăng. Ban đêm sắp đi ngủ, người bạn đã băn khoăn lo ngại, tìm cách cất giấu cái bọc vàng của mình thật kỹ càng chu đáo rồi mới yên lòng nhắm mắt nghỉ ngơi. Khốn nạn, hơi vàng đã làm hoen ố lòng người bạn. Người đó đã mất hết sinh thú, mất hết lòng tin, mất hết! Người đó chỉ còn biết có vàng. Vàng đã nhập vào linh hồn người đó, xua đuổi hết những gì là cao quý ra ngoài. Vậy mà chính mắt bần tăng đã làm cho người đó được dự vào cái công cuộc tìm vàng chỉ có một mình bần tăng biết. Vậy mà bần tăng đã che chở, đã khuyến khích bạn, đã tìm ra đúng đường đi, đã từng mang hộ cho người bạn cái đẫy vàng lớn nhất, nặng nhất, vì tham lam bỏ nhiều vàng nhất.
Đói khát khổ cực dường ấy, nắng mưa gió bão rét run dường ấy, cũng không sánh được với cái đau lòng vì mất bạn, vì thấy bạn xa mình, chỉ bởi vàng. Bần tăng yêu bạn hơn mình, chăm nom săn sóc bạn dọc đường nhưng một người anh để ý đến em. Bần tăng vừa có sức lại vừa kiên nhẫn nên mới vượt được từng ấy gian lao, còn người bạn đồng hành, tuy hăng hái lúc đầu, tuy còn trẻ nhưng lại dễ sờn lòng. Vả không từng có kinh nghiệm như bần tăng về núi rừng nên có thể nói cuộc thành công đó tất nhiên là công lao của bần tăng. Đã không kể đến chỉ một lòng quý bạn, như vậy mà bạn đã hóa thù, hóa kẻ vô ơn, thử hỏi xót xa biết mấy? Người ta bảo có những người mà cái “bệnh vàng” kia gặm đục như một thứ trùng ác hại. Một khi họ đã đụng tới vàng thì tấm lòng họ héo quắt đi như chiếc lá đem hơ lửa. Cái ngày mà hai người tới cách địa phương nhà không còn xa nữa, chính là lúc tình bạn càng thêm tăm tối. Bần tăng chợt nghĩ rằng cái tấm lòng phản trắc xấu xa kia có thể đang mong chiếm đoạt lấy cho mình tất cả chỗ vàng của hai người, như trước đó đã nhẫn tâm sẽ bớt lương khô để ăn riêng ăn lén một mình. Chao ôi, ở đời còn có sự chua chát nào hơn khi người ta nhận thấy kẻ bạn bè thân thiết

nhất hóa ra hèn hạ.
Đời sống lặng câm dưới vòm cây, đi trong hơi nặng của núi rừng, trong cảnh dửng dưng của tạo vật, trí óc con người hóa ra sáng suốt lạ thường. Người ta đoán được tư tưởng của nhau, như theo dõi một con rắn trườn mình trong cỏ rậm. Vâng, tấm lòng người bạn của bần tăng đã đóng lại. Hai người đi cạnh nhau lúc trở về quê hương chỉ là hai người mà số phận tình cờ bắt đi chung một con đường. Người bạn của bần tăng không nói nữa, đầu cúi gắm mà bước, hàm răng nghiến chặt, thái độ đề phòng, vì đã nghi ngờ.
Thảm hại chưa? Giữa lúc con người cùng trơ trọi, cùng cách xa xã hội văn minh, cùng rách nát thân hình, cùng đau khổ như nhau đáng lẽ ra phải thân nhau, như hai người là một, để chống lại bao nhiêu nỗi bất trắc, bất ngờ của dặm trường, thì lại đề phòng nhau, thăm dò nhau từng phút, từng giây. Người bạn của bần tăng lâu dần không giấu nổi sự thù hiềm chất chứa trong lòng thường để lộ ra cử chỉ. Bần tăng vẫn cúi đầu nhìn bạn. Trong hai người lúc đó bần tăng
vẫn là kẻ mang cái gánh nặng bi ai nhất trên đường. Cho đến ngày bần tăng lâm nạn…
Chỉ còn độ vài ngày đường nữa có thể tới được cái túp lều đầu tiên của người cùng giống, bần tăng đã bị bệnh sốt rét rừng vật ngã, lần này không cưỡng nổi. Đang đi bỗng thấy trời đất núi rừng tối sầm cả lại, mọi vật quay cuồng điên đảo, và thế là bần tăng gục xuống đường, tai ù lên như có chiêng, trống đập vào liên tiếp. Trong cơn mê mẩn thấy mình tìm về được đến nhà sum
họp cạnh những người thân thích, rồi sau đó là đêm dày, đêm dày như mực, không còn hay biết sự gì, thấy mình trôi tuột vào một quãng trống thật êm, như một chiếc thuyền trôi theo dòng chạy xuống một cái vực sâu, sâu hút, không bao giờ tới đáy.

Nhưng tử thần có lẽ chưa được lệnh hái linh hồn của bần tăng về thế giới bên kia, nên sau cơn bệnh đó bần tăng lại tỉnh. Chà, nặng nề thay cái cảm giác của một người trong gian lao khổ cực như bần tăng lúc đó, khi mở mắt ra chỉ thấy mình trơ trọi một thân. Vâng, trơ trọi bởi vì người bạn sinh tử của bần tăng đã đi rồi, và người đó cũng không quên mang cái đẫy vàng của bần tăng đi nốt. Người đó không để lại một vật gì có thể gọi là dùng được, cả đến con dao dài của bần tăng dùng làm vật hộ thân…
Vậy là hết! Hai bàn tay trắng như lúc ra đi. Nhưng lúc ra đi bần tăng khỏe mạnh, yêu đời, đầy hy vọng, bao giờ thì thật hết!
Bần tăng hét lên một tiếng thê thảm tưởng có thể động tâm đến cả trời. Nhưng vô ích, không có một ai nghe thấy cả. Hai dòng nước mắt của bần tăng lúc bấy giờ nhỏ xuống như mưa, vâng, bần tăng khóc, khóc cho cái mộng giàu sang, khóc cho tình bằng hữu.
Trời tối, cổ họng rát bỏng, đầu óc như có lửa, bần tăng lê mình đến một vũng nước tù mà uống tưởng chừng có thể uống cạn cả một khúc sông lúc đó.
Chiều hôm sau, có mấy kẻ đi săn hươu thường qua lại trong rừng bắt gặp một người sắp hóa điên bò lê trong bụi rặm để đuôi theo một con vật nào đó, như một con thú dữ săn mồi. Người đó là bần tăng, vâng, chính là bần tăng đương ngồi hầu chuyện hai vị khách quý của nhà chùa, dưới bóng trăng này.
Từ đó, chắc hai vị cũng hiểu, bần tăng chán tất cả mọi điều thường cám dỗ con người. Bần tăng đã trở nên một con người khác.

Vị sư trước, đã tịch ở chùa này, vị sư đã cứu sống đã nuôi dưỡng bần tăng, lúc qua đời có dặn dò bần tăng phải ở mãi chốn này, để thỉnh thoảng cứu giúp những người cơ lỡ, ốm đau, như bần tăng ngày trước.
Ngôi chùa này vì xa cách dân cư ở đồng bằng nhiều quá, và đường đất đi đến chốn này hiểm trở và dễ lạc, nên trừ bần tăng và mội vài chú tiểu chùa đây, không mấy người có gan ở lại. Nếu các vị còn dừng ở đây lâu, các vị sẽ thấy đời sống của những kẻ tu hành ở chốn này khe khắt và kham khổ quá, nhưng bần tăng và các tiểu đã quen rồi. Ở đây, tuy vậy hoa ngàn trăng núi, cảnh thiên nhiên không bợn chút bụi trần, càng dễ dốc lòng vì đạo. Nhưng thôi, đêm đã khuya rồi! Hai vị cần phải ngủ một giấc dài sau một ngày đường vất vả. Chim tử quy đã cất tiếng gọi lần nữa, có lẽ bây giờ đã canh ba. Bần tăng thường có tính thức khuya đọc sách hoặc đi dạo trước sân chùa. A di đà Phật, hôm nay vui chuyện quá nên không kể đến cái mệt của hai vị, xin thứ lỗi.
Vị sư già nói xong khoan tha bước lên chùa, trở lại phòng riêng. Trăng xế sau mái chùa cong lúc nào, hai người khách cũng không để ý. Nhưng cả đêm hôm đó, giấc ngủ của hai người thường bị những cảnh rùng rơn do vị sư già kể lại, làm cho trằn trọc không an.
Bình minh lại tới, đem theo sự sáng sủa vào lòng người. Tiếng chim xao xác quanh chùa đánh thức hai người khách mê man trên bệ gạch, giữa lúc mặt trời chói lọi khắp nơi.
Hai người khách dùng trà, và ăn điểm tâm xong vội vã đi tìm vị sư già để dâng lời từ biệt.

Vị sư già lúc đó đang nhặt cỏ ở gốc một cây hoa lạ trước sân chùa, cũng vội đứng lên tiễn hai người xuống núi. Gió sớm thổi vào tóc ba người như quạt. Một niềm vui mát mẻ cũng lùa theo vào lòng những kẻ bộ hành sắp lên đường. Đến cửa chùa vị sư già dừng lại:
– Bần tăng xin cáo biệt, chúc nhị vị gặp mọi điều tốt lành ở dọc đường.
Hai người khách kính cần lui xuống bậc đá thứ hai, hướng lên vị sư già mà vái:
– Cao tăng đã giúp ích cho hai chúng tôi nhiều lắm. Chúng tôi không bao giờ quên câu chuyện đêm qua, xin sẽ còn ngày hội ngộ.
Vị sư già mỉm cười, hồn hậu trả lời:
– Bần tăng cũng mong được như vậy lắm, cầu Phật tổ phù hộ cho nhị vị chân cứng đá mềm.
Hai người khách đã xuống đến bậc đá cuối cùng của ngôi chùa, vị sư già vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ. Nhưng khi thấy hai người khách do dự một lúc ở con đường rẽ sang biên giới rồi quay về đường cũ, thì nét mặt vị sư già bỗng tươi lên như một cánh hoa.
– A di đà Phật, xin Phật tổ run rủi cho hai kẻ bộ hành kia đừng đổi ý. Xin run rủi cho bước chân họ trở về chốn cũ, nơi anh em, vợ con, cha mẹ họ sum vầy. Xin đừng khiến vàng bạc làm tối lòng họ lại. Xin giữ cho tình bạn của họ lâu bền.

(Truyện ngắn cực hay tại Truyendammy.vip)

VN88

Viết một bình luận