VN88 VN88

Cái viên mỡ bò

Cửa xe mở ra. Một tiếng động quen thuộc làm mọi hành khách giật mình, đó là tiếng vỏ gươm chạm xuống đất. Lập tức có tiếng một tên Đức thét lên câu gì đó.
Mặc dù xe đã đứng yên, chẳng ai bước xuống, như thể sợ ra khỏi xe sẽ bị giết chết. Rồi người đánh xe xuất hiện, tay cầm chiếc đèn kính đột nhiên dọi chiếu vào đến tận cùng xe, hai dãy mặt người hốt hoảng, mồm há hốc và mắt trợn trừng vì ngạc nhiên và sợ hãi.
Đứng bên bác xà ích, giữa ánh sáng, là một tên sĩ quan Đức, một gã thanh niên cao lớn, hết sức mảnh dẻ và tóc vàng, bộ quân phục bó chặt lấy ngườI như một cô gái mặc áo nịt chẽn, trên đầu đội lệch chiếc mũ lưỡi trai phẳng và bóng láng, khiến y giống anh hầu bàn ở một khách sạn Anh-cát-lợi. Bộ ria quá khổ của y, với những sợi ria dài, thẳng đuột, cứ thưa dần mãi ở hai bên và xe vút lại thành một sợi độc nhất màu vàng, và quá nhỏ, thành thử không nhìn thấy rõ nó dài tới đâu là hết, dường như nó đè lên hai bên mép, và kéo sệch má, in lên đôi môi một nếp nhăn trễ xuống.
Y dùng tiếng Pháp vùng Anđaxơ, giọng cứng nhắc, mời các hành khách ra khỏi xe; Quí ông, quí bà, các vị xuống xe đi chứ!
Hai bà phước tuân lệnh đầu tiên với thái độ dễ bảo của các bà tu hành vốn quen chịu mọi sự phục tùng. Rồi đến ông bà bá tước, theo sau là vợ chồng ông chủ nhà máy, rồi đến Loadô vừa đi vừa đẩy mụ vợ to béo đi trước. Vừa đặt chân xuống đất, hắn nói với tên sĩ quan: “Xin chào đức ông!” vì thận trọng nhiều hơn là vì lễ phép. Tên Đức hỗn xược như những kẻ oai quyền hống hách, chỉ nhìn hắn mà không đáp. Viên Mỡ Bò và Cornuyđê, tuy ngồi gần cửa xe nhưng bước xuống sau cùng, nghiêm trang và kiêu kỳ trước mặt quân thù. Cô gái to béo cô tự kiềm chế và giữ bình tĩnh, nhà dân chủ thì đưa bàn tay bi đát và hơi run run lên mân mê bộ râu dài hung đỏ. Họ muốn giữ gìn phẩm cách, vì họ hiểu rằng trong những cuộc gặp gỡ như thế này mỗi người đều phần nào đại diện cho nước mình, và cùng chung một nỗi bất bình đối với thái độ quá mềm dẻo của các bạn đồng hành, cô ta cứ cố tỏ ra kiêu hãnh hơn đám đàn bà lương thiện ngồi bên, còn anh chàng kia cảm thấy mình cần phải nêu gương, trong toàn bộ thái độ của mình phải tiếp tục cái sứ mệnh phản kháng đã bắt đầu từ lúc đi phá hoại đường sá.

Mọi người vào cả nhà bếp rộng của quán trọ, và tên Đức sau khi bắt đưa trình giấy thông hành do viên tướng tổng tư lệnh ký và trong đó có ghi tên tuổi, nhận dạng và nghề nghiệp của mỗi hành khách, y ngắm nghía hồi lâu tất cả đám người này, so sánh từng người với những chỉ dẫn ghi trong giấy.
Rồi đột ngột nói: “Được rồi!”, và biến mất.
Mọi người thở ra nhẹ nhõm. Ai nấy đều còn đói và đặt ngay bữa ăn tối. Cần phải mất nửa giờ mới dọn ăn được, và trogn khi hai cô hầu bàn ra vẻ chăm lo việc ấy, mọi người đi thăm các phòng ngủ. Tất cả các phòng đều nằm dọc theo một hành lang dài, tận cùng là một cửa kính trên có ghi “con số biết nói”(15)
Sau cùng, khi mọi người sắp sửa ngồi vào bàn ăn thì chính chủ quán xuất hiện. Lão ta trước kia là một lái ngựa, người to béo, mắc bệnh hen, lúc nào cũng khò khè, giọng khản đặc, tiếng đờm xiển rít trong cổ họng. Bố lão ta đã truyền lại cho lão cái tên Fonlăngvi(16). Lão ta hỏi:
– Cô Elizabet Ruxê?
Viên Mỡ Bò giật mình quay lại:
– Tôi đây
– Thưa cô, ngài sĩ quan Phổ muốn nói chuyện với cô ngay.
– Với tôi?
– Vâng, nếu cô đúng là Elizabet Ruxê.
Cô ta bối rối, suy nghĩ một giây, rồi nói dứt khoát.
– Có thể là thế, nhưng tôi không đi.

Chung quanh cô ta mọi người nhao nhao cả lên, ai nấy đều bàn tán, đoán hiểu nguyên nhân của lệnh nọ. Ông bá tước lại gần:
– Thưa bà, như thế là bà sai trái đấy, vì bà mà từ chối thì có thể đem lại những trở ngại lớn, không những cho bà, mà còn cho tất cả các bạn đồng hành của bà nữa. Không bao giờ nên cưỡng lại những kẻ mạnh hơn ta. Lời yêu cầu đó chắc không có gì nguy hiểm đâu: ý hắn chỉ vì quên một thủ tục nào đó thôi.
Tất cả mọi người hùa theo ông bá tước, người ta van nài, người ta thúc giục, người ta quở trách cô, và cuối cùng người ta thuyết phục được cô; vì tất cả đều lo sợ những chuyện rắc rối có thể xảy ra vì một hành động liều lĩnh. Rút cục cô ta nói:
– Chỉ vì các ông các bà mà tôi đi đấy thôi!
Bà bá tước cầm lấy tay cô:
– Và vì thế chúng tôi xin cảm ơn bà.
Cô ta đi ra. Mọi người đợi cô để ngồi bàn ăn. Ai nấy đều lấy làm buồn thay cho cô gái tợm tạo và nóng nảy ấy, và thầm chuẩn bị sẵn những lời khúm núm phòng trường hợp đến lượt mình bị gọi chăng.
Nhưng mười phút sau cô ta đã trở về, thở hổn hển, mặt đỏ gay, tức uất người. Cô lúng búng: “Ồ quân chó má! Quân chó má!”.
Mọi người xúm lại hỏi chuyện, nhưng cô không nói gì hết, và sau ông bá tước gặng mãi, cô trả lời một cách nghiêm trang: “Không, việc này không liên quan gì đến các ông, các bà, tôi không thể nào nói được.
Thế là mọi người quây vào ngồi chung quanh một liễn xúp thơm nức mùi bắp cải. Mặc dầu có chuyện đáng lo nghĩ ấy, bữa ăn cũng vui vẻ. Rượu táo ngon, nên vợ chồng Loadô và hai bà phước dùng rượu táo, để tiết kiệm. Những người khác gọi rượu vang; Cornuyđê thì đòi bia. Y có một lối đặc biệt mở nút chai, làm cho bia xủi bọt, nghiêng cốc nhìn, rồi nâng cốc lên soi qua đèn và dùng mắt thưởng thức kỹ màu sắc. Khi uống, bộ râu rậm của y –nó vẫn giữ cái màu vẻ của món giải khát y ưa chuộng- dường như trìu mến rung lên, mắt y không ngừng theo dõi cốc vại đến thành lác trật, và trông y có vẻ như đang thực hiện cái chức năng duy nhất của đời y. Tưởng chừng như y đang xác lập trong đầu óc một sự kết hợp và hầu như một mối tương quan giữa hai thú say mê lớn choán hết cả cuộc đời y: rượu bia Palơ Alơ và cách mạng; và chắc chắn là y không thể nào thưởng thức thứ này mà không nghĩ đến thứ kia.

Vợ chồng lão Fonlăngvi ngồi ăn ở mãi tận cuối bàn. Lão ta thở phì phò như một đầu máy xe lửa vỡ, ngực khò khè mạnh quá nên không thể nào vừa ăn vừa nói được, nhưng vợ lão thì không chịu im miệng lúc nào. Bà ta kể lể mọi cảm tưởng của mình khi bọn Phổ đến, nào chúng làm gì, nào chúng nói gì, bà ghét cay ghét đắng chúng trước hết vì chúng làm cho bà tốn của, và sau nữa là vì bà có hai con trai tại ngũ. Bà hay hỏi chuyện bà bá tước nhất, thích thú được chuyện trò với một phu nhân cao quí.
Rồi và hạ thấp giọng để nói những chuyện tế nhị, và ông chồng thỉnh thoảng lại ngắt lời bà: “Im mồm đi thì hơn, bà Fonlăngvi ạ”. Nhưng bà chẳng để ý gì đến lời chồng, và cứ nói tiếp:
– Vâng thưa bà, cái quân ấy chỉ có ăn khoai tây và thịt lợn, và rồi thịt lợn và khoai tây. Và đừng có tưởng là chúng sạch sẽ gì đâu! Ồ, không! Nói vô phép với bà chứ, chúng bậy bạ ra khắp mọi chỗ. Và giá bà trông thấy chúng tập tành hết giờ này sang giờ khác và hết ngày này sang ngày khác; chúng ra tất cả ngoài cánh đồng kia kìa: nào tiến lên, nào lùi xuống, nào quay đằng này, nào quay đằng nọ. Chẳng thà chúng đi xới đất trồng trọt, hoặc là chúng đi làm đường làm sá ở đất nước chúng! Nhưng không, thưa bà, cái bọn lính tráng ấy, thật chẳng được tích sự gì cho ai hết! Tội cho người dân đáng thương cứ phải nuôi chúng để chúng độc có một cái trò duy nhất là giết chóc! Tôi chỉ là một mụ già vô học thật đấy, nhưng trông thấy chúng xứ giậm chân đến nhọc thần xác, bở hơi tai suốt từ sáng đến tối thì tôi tự bảo: Trong khi có những người phát minh ra bao nhiêu thứ để thành người hữu ích, sao lại có những kẻ tốn công tốn sức để đi gây tội gây hại thế? Quả thật, giết người, dù là người Phổ, hay người Anh, hay người Ba Lan, hay người Pháp đi nữa, chẳng phải là một chuyện gớm ghiếc hay sao? Nếu mình báo thù một kẻ nào đã hãm hại mình thì đó là mọt việc xấu, vì mình bị kết tội, nhưng khi họ dùng súng ống giết con chúng ta như đi săn chim, săn thú thì lại là chuyện tốt vì người ta chẳng ban thưởng huy chương cho người nào giết được nhiều người nhất đó ư? Không, bà có thấy chăng, thật chẳng bao giờ tôi hiểu nổi điều đó!
Cornuyđê lên tiếng:
– Chiến tran là một sự dã mà khi người ta đánh một người láng giềng đang sống yên lành; nhưng khi ta bảo vệ tổ quốc thì đó là một bổn phận thiêng liêng.
Bà cúi đầu:
– Vâng, khi phải tự vệ thì đó là chuyện khác, nhưng các vua chúa gây ra chiến tranh để thỏa ý của họ, sao người ta không giết chết họ đi có phải hơn không?
Mắt Cornuyđê sáng lên:
– Hoan hô, nữ công dân! –Y nói.

VN88

Viết một bình luận