Sắp đến ngày ra trường, vì đỗ đầu khoa nên anh được thấy Viện Trưởng Đại Học trao cho tấm giấy mời danh dự của chiếc ghế dành cho người thân của thủ khoa. Đó là một vinh hạnh cho các vị có công nuôi dưỡng tân khoa. Cầm thẻ mời anh gần như ứa nước mắt, vì chẳng còn người thân nào gần gũi. Anh tặng em tấm giấy mời để hoặc là dán vào album làm kỷ niệm hoặc là nếu có can đảm thì đến dự lễ ra trường cùng anh vì buổi lễ được tổ chức rất lớn, ngoài trời, như là một ngày hội trọng thể của toàn thành phố. Anh vẫn còn giữ tấm ảnh chụp em ngày hôm đó, ngồi trên ghế danh dự của thân nhân thủ khoa bên cạnh các bô lão và quan chức thời ấy. Anh cám ơn lòng can đảm của em, vì khi trong áo giáo thụ bước lên đài lãnh văn bằng, có một giây nào đó anh chỉ thấy em, trong khoảnh khắc đôi mắt em sáng ngời hồn anh, lễ đài quan chức như tan đi trong một thoáng, chỉ còn em. Chuyện chúng mình vì thế lại đến tai ba me, hai vị lại ra sức cấm đoán và bạn bè kể cho anh nghe có lần ba đã đánh em vì chuyện ấy. Ba me gần như thành công lần này khi cấm hai đứa gặp mặt. Đám khách mời dự tiệc hàng tháng ở nhà em phần lớn là tướng, tá và nhà giàu, trong đó có người ba me hằng mong kết sui gia. Lần hồi anh hiểu ra rằng ước nguyện của ba me không đặt ở nơi việc học hành thành đạt mà lại hướng về tiền bạc và quyền thế, hai thứ có thể giúp ba me trong kinh doanh, làm áp phe. Tiền bạc và quyền lực chỉ có ở giới giàu và kẻ có quyền cao chức trọng. Anh không thuộc hai giới đó nên trong mắt ba me vẫn chỉ là một thằng côn đồ chực hăm hở cướp con gái nhà người ta. Ấn tượng ngày ấy khó phai mờ trong tâm khảm người lớn. Anh tìm gặp thầy Viện Trưởng xin lên Đà Lạt dạy học, thầy rất đổi ngạc nhiên vì đã dành cho anh một địa vị đáng quý ngay tại Đại Học.
Thâm tâm anh còn một hy vọng sẽ cùng em lập một đời sống mới trên vùng cao nguyên, một cõi thanh bình riêng cho hai đứa mình. Anh lại ươm mơ, không biết rằng trong mỗi người con gái có phần mộng mơ và có phần toan tính. Em có đủ can đảm yêu anh nhưng lại thiếu quyết tâm từ bỏ mọi thứ tiện nghi đã ấp ủ em hơn hai mươi năm từ lúc em còn trong bụng mẹ. Ngày lễ chọn nhiệm sở, thủ khoa đã gây ngạc nhiên cho nhiều người khi đứng trước micro tuyên bố xin chọn lên Đà Lạt, nhường nhiệm sở nơi đây cho người kế tiếp. Sau đó chúng mình gặp nhau lần cuối. Xứ Huế có quá nhiều thành kiến với con gái bỏ nhà đi theo trai. Em buồn đau nhiều lắm nhưng thực tiễn đưa em đến quyết định. Thế là anh lên cao nguyên một mình không có em… Ta đã mất nhau một lần, vết thương trong hồn anh rớm máu khi anh giã từ Huế, thành phố của nhiều kỷ niệm hai đứa mình. Ra đi từ ấy chưa một lần trở lại…
Bỏ lại Huế sau lưng, anh mang tâm trạng gần như “kẻ từ quan, lên non tìm động hoa vàng ngủ say.” Anh làm giáo sư tại trường nữ trung học lớn nhất xứ hoa đào. Thỉnh thoảng còn nhận được thư em, anh mang ra đồi nằm trên cỏ đọc đi đọc lại hàng chục lần. Mây cao nguyên bay nhanh hơn rất nhiều so với những lần mình cùng nhau nhìn mây trên đồi Từ Hiếu, nhưng lòng anh không chút rộn ràng. Anh yêu một loại hoa vàng mọc dại bên đường. Vệ đường hoa bước vào đời anh từ đó. Dẫu sao khi nhìn lại những ngày đã qua anh vẫn thầm cám ơn em và quãng đời dịu êm có em bên anh. Không có em chắc hẳn đời anh đã đổi khác. Nếu cuộc tình không ban cho anh niềm mơ ước vươn lên, ai biết đâu anh nay chẳng là gã lưu manh ngoài chợ?
Khung cảnh trầm lặng của núi đồi Đà Lạt giúp nguôi ngoai một phần khổ đau trong lòng, anh mong tìm quên và nguồn vui trong công việc. Học trò phần lớn rất ngoan, có những buổi gần trưa anh đang say mê giảng bài bỗng chột dạ dừng lại vì mấy chục cặp mắt theo dõi mình từng lời, từng cử chỉ, những đôi má ửng hồng tự nhiên khiến anh thấy ngạc nhiên vì nét đẹp trời cho của người con gái Đà Lạt. Tuy nhiên, hồn vẫn mộng mơ dõi về thành Huế, vẫn mong ngày về gặp lại em vào mùa hè năm sau, năm 1975.
Nhưng những biến động thời cuộc từ giữa tháng ba năm bảy lăm đã cắt đứt con đường anh tìm về gặp em. Tin đồn đầy dẫy. Khắp nơi những đoàn người nhốn nháo tìm cách rời khỏi thành phố miền cao. Trường đóng cửa, theo đoàn người loạn lạc anh xuôi về đồng bằng , hỏi tin em giữa hàng ngàn người di tản, lòng vẫn nuôi hy vọng ba me sẽ hồi tâm. Bởi dường như nay tình hình đổi khác. Nhưng hoài công vì em vẫn biệt tăm.
Tàn cuộc chiến, anh về Đà Lạt tiếp tục dạy học tại trường xưa. Quanh anh bỗng có lắm người quen cũ đã từng hoạt động cách mạng! Họ vung tay hô hào bừng bừng khí thế. Họp hành liên miên, rồi kiểm thảo, kiểm điểm, học tập, tập huấn.Thành phố Đà Lạt vài năm đầu tiên sau chiến tranh cỏ mọc xanh um trong các sân vườn biệt thự đóng kín. Tên trường, tên cơ quan, thậm chí bảng hiệu cửa hàng cũng thay đổi màu sơn cho hợp với thời thế. Thảm hoa trong nhiều vừơn nhà bị nhổ sạch để thay bằng những luống khoai lang sớm chiều chăm bón. Đồi Cù khoáng đạt, thâm trầm được đào thêm vài ngàn hố nhỏ để trồng cây tạo rừng cho con cháu mai sau. Dẫu sao, mây trời Đà Lạt vẫn bay lồng lộng và mỗi sáng tinh mơ, sương như những sợi khói bạc trên hồ vẫn lập lờ cùng mặt nước yên lặng, như điệu vũ uyển chuyển của ngàn tiên nữ áo trắng mong manh.
Tin em vẫn biền biệt, dù đã nhiều lần anh gửi thư về con phố nay đã thay tên. Bạn bè cho biết gia đình em không còn ở Huế nữa. Mãi hơn một năm sau anh mới nhận được thư em, mỗi lời thư như một giọt buồn vào hồn anh ngay từ câu mở đầu: “Anh yêu, ta xa nhau mãi mãi. Một năm nay em vẫn dõi tìm địa chỉ của anh, vừa biết anh vẫn dạy trường cũ. Bây giờ đại dương đã xa cách chúng mình….”
Thư viết không dài vì có lẽ em ngại thư không đến tay anh. Nhưng anh đã rõ. Tài xoay sở của ba me đã đưa được cả nhà sang bên đó trong những ngày cuối cùng của tháng tư năm ấy. Năm sau anh lại nhận được tin em và cánh thiệp hồng gửi từ Bắc Mỹ báo tin em lấy chồng. Chồng em là con của một trong những người khách vẫn dự tiệc hàng tháng tại nhà em hồi ấy. Thế là mãi mãi em đã xa khỏi tầm tay anh….
Bây giờ anh dồn hết lòng yêu thương cho đám học trò, cố vượt qua những khó khăn của buổi giao thời. Anh cũng vác cuốc theo học trò đi lao động, làm thuỷ lợi hoặc xới đất trồng khoai. Nhưng có những lúc dừng tay cuốc nhìn đám mây trôi nhanh giữa trời xanh ngắt, chợt thấy em hiện về trong tâm tưởng, vẫn hàng mi cong vút và mái tóc dài cuốn gió tung bay trên đồi Từ Hiếu.
Em yêu dấu, tình ta là cuốn sách đã giở sang trang mới. Tuy hoài niệm còn đó, còn trong kỷ vật, trong chồng thư và trong chiếc áo len tự tay em đan anh vẫn mặc chống gió lạnh miền cao. Nhưng chúng mình giờ đã như hai dòng nước từ một con sông chảy về hai hướng càng lúc càng xa nhau rồi. Có gặp nhau chăng ngoài biển lớn cũng chẳng còn là mình ngày xưa.
Lỡ mất em trong cuộc đời, anh chỉ còn cố bám vào chút tình yêu cuối anh dành cho nghề dạy học, dẫu đã phải trải qua nhiều năm cùng cực. Nhưng thời cuộc một lần nữa lại dửng dưng tước đoạt chút lòng còn lại: nợ cơm áo và tình người hờ hững đã buộc anh phải rời xa lớp học, chuyển sang làm thợ máy hầu mong tránh đói nghèo….Vết thương nào cũng nhức nhối trong tim.
Nhớ lại ngày trước, qua bài hát, có người nhạc sĩ đã bảo anh rằng: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không?… Để nước cuốn trôi!” Anh đã muốn vươn lên trong đời để mong có một tấm lòng, và nước đã cuốn trôi tất cả. Như những hạt cát khô của ngày xưa còn bé, lúc cha anh mới mất, anh thường ra bờ biển vốc đầy trong nắm tay, lần hồi cát vuột qua kẽ tay đi hết, có chăng chỉ còn xót xa trong mắt, trong lòng….
Làn không khí lạnh đầu mùa khô bắt đầu mơn man hoa lá trên những lối mòn quanh co của thành phố miền cao. Những cặp tình nhân từ khắp nơi đổ về hưởng vị ngọt của tình yêu hoà trong hơi lạnh. Từng đôi, từng đôi ngập tràn trong hạnh phúc….Có một loài hoa sắc vàng giữa đám lá xanh: Vệ Đường Hoa.
(Truyện ngắn cực hay tại Truyendammy.vip)